Trong túi đa số người dân ở Mỹ có ít nhất một thẻ tín dụng (credit card), nhiều người thường có hai hoặc ba.
Đó
là tấm thẻ bằng nhựa cỡ 3-1/8 inch x 2-1/8 inches, gồm các thông tin
cá nhân như chữ ký hoặc hình, cho người có tên được sử dụng để mua hàng
hóa và dịch vụ rồi sau đó trả tiền theo định kỳ. Ngày nay, thông tin
trên thẻ được đọc bằng máy ATM (automated teller machine), máy điện
toán, hoặc máy ở ngân hàng và tiệm bán hàng.
Thẻ tín dụng xuất xứ từ Hoa Kỳ vào thập niên 1920, nhưng là loại ưu
đãi. Các khách sạn, các công ty dầu mỏ cấp phát thẻ cho khách hàng để
mua các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ. Sau Thế chiến II, thẻ tín dụng
được dùng nhiều hơn.
Còn loại thẻ tín dụng phổ thông -
dùng được ở nhiều tiệm, nhiều công ty – là do Diners Club Inc. cho ra
đời năm 1950. Trong hệ thống này, công ty cấp thẻ charge người có thẻ
một số tiền lệ phí hàng năm và bill cho họ theo định kỳ hàng tháng hay
hàng năm.
Một loại thẻ phổ thông khác với khẩu hiệu "Don't leave
home without it! (Đừng ra khỏi nhà mà không mang theo)" của công ty
American Express ra đời năm 1958.
Tiếp theo đó là thẻ tín dụng
của ngân hàng. Ngân hàng credit (cộng tiền vào) trương mục của tiệm khi
nhận được hóa đơn gởi tới từ tiệm bán hàng cho khách - tiệm rất thích
vì được trả tiền ngay -, rồi thu các hóa đơn lại để tính tiền cho
khách hàng vào cuối chu kỳ. Đến lượt khách hàng, sẽ trả cho ngân hàng
toàn bộ số tiền nợ hoặc trả góp với tiền lời (carrying charges).
Chương
trình đầu tiên gọi là BankAmeriCard, bắt đầu trên toàn quốc năm 1959
do Bank of America tại California khởi xướng. Hệ thống này phát triển
ra các tiểu bang khác từ năm 1966 và đổi tên thành Visa năm 1976.
Tiếp
đến một thẻ tín dụng lớn khác của ngân hàng là MasterCard, tên cũ là
Master Charge. Nhiều ngân hàng nhỏ trước kia cấp thẻ tín dụng tại địa
phương, nay liên kết với các ngân hàng trong nước hoặc quốc tế để phát
hành toàn quốc.
Những con số trên thẻ tín dụng
Các công ty cấp thẻ tín dụng toàn quốc dùng hệ thống ANSI Standard X4.13-1983 để đánh số thẻ:
1. Số đầu tiên cho biết hệ thống:
- dành cho thẻ du lịch/giải trí (như American Express, Diners Club);
- dành cho Visa;
- dành cho MasterCard;
- dành cho Discovery
2.
Cấu trúc của số thẻ thay đổi tùy theo hệ thống. Chẳng hạn American
Express bắt đầu bằng 37, Carte Blanche và Diners Club bằng 38.
- American Express - Số thứ 3 và 4 là loại thẻ và tiền; số thứ 5 đến
11 là số trương mục; số thứ 12 đến 14 là số thẻ trong trương mục; số
thứ 15 là số kiểm soát.
- Visa - Số từ thứ 2 đến 6 là số ngân
hàng, số thứ 7 đến 12, hoặc 7 đến 15, là số trương mục; số thứ 13 hoặc
16 là số kiểm soát.
- Master Card – Số từ 2 đến 3, từ 2 đến 4, từ 2
đến 5, hoặc từ 2 đến 6 là số ngân hàng (tuỳ theo con số thứ 2 là 1, 2,
3 hoặc khác). Những số sau số ngân hàng cho đến số thứ 15 là số trương
mục, số thứ 16 là số kiểm soát.
Con số cuối cùng trên thẻ tín
dụng là số kiểm soát (check digit), dùng để khẳng định tính chất xác
thực của số thẻ, ngăn ngừa những người cố tình tạo ra những số giả,
đồng thời cũng để tránh những sai sót khi ghi số thẻ.
Nhiều thẻ còn ghi năm cấp phát và ngày hết hạn, cũng như những mật số an toàn.
Khi mua hàng qua điện thoại hoặc trên mạng, thường bạn phải cho biết mật số an toàn này. Số an toàn nằm ở các vị trí sau đây:
- American Express: 4 số in phía trên dãy số thẻ, nằm về phía bên mặt.
- Visa. Master và Discover: 3 số in sau 4 số cuối thẻ, nằm dưới ô chữ ký.
Mật
số an toàn không in nổi như số thẻ, không có trong giải băng từ tính ở
mặt sau, không xuất hiện trên các hoá đơn hoặc tờ statement gửi cho
bạn trả tiền, mà chỉ có người cầm thẻ mới biết được. Do đó khi bạn cho
người bán hàng mật số này là bạn xác nhận mình là người mua hàng và là
chủ nhân của thẻ.
Băng từ tính
Mặt
sau thẻ credit có một băng từ tính (magnetic stripe, gọi tắt là
magstripe), gồm những hạt nhỏ li ti, mỗi hạt là một thanh nam châm dài
khoảng 1/20 triệu của 1 inch.
Băng từ tính trên thẻ credit thường
có ba track, mỗi track rộng khoảng 1/10 của 1 inch. Trên băng có các dữ
liệu như: số thẻ, tên, mã số quốc gia, ngày hết hạn, số tiền tín
dụng...
Khi người bán hàng “cà” thẻ trên máy đọc, nhu liệu trong
máy POS (point of sale) của tiệm gọi cho một acquirer. Đây là một tổ
chức nhận yêu cầu của tiệm xin xác nhận thẻ và hứa trả tiền cho tiệm.
Tổ chức này liền kiểm soát xem số thẻ, ngày hết hạn, số tiền hạn chế
trên băng từ tính có chính xác không. Tất cả tiến trình được thực hiện
với tốc độ từ 1,200 đến 2,400 bits một giây đồng hồ (bps).
An toàn khi dùng thẻ
- Ký tên trên thẻ ngay sau khi nhận được
- Đừng bỏ lại receipts sau khi dùng thẻ ở các máy ATM, vì trên đó có thể có số thẻ và số PIN.
- Nhớ lấy lại thẻ sau khi mua hàng. Một thói quen để không quên là cầm ví còn mở trên tay cho đến khi lấy lại thẻ.
- Lập một danh sách các thẻ đang sử dụng với số thẻ, số điện thoại để nếu thẻ bị mất có thể gọi báo ngay cho nơi cấp.
-
Kiểm soát bản statement hàng tháng để biết chắc các món chi tiêu là do
bạn mua sắm. Thông báo ngay cho nơi cấp nếu thấy sai lạc.
Thẻ tín dụng là gì xem thông tin và kiến thức mở thẻ tín dụng tại đây
Trả lờiXóahttp://thebank.vn/tim-va-so-sanh-the-tin-dung